Chính Thể Việt Nam
Chính Thể Việt Nam
Tác giả: Vi Sơn Vũ Đình San (Cố Vấn CPVNCHLV)
I.
ĐẠI CƯƠNG VỀ TƯ TƯỞNG
1.
Tư tưởng tuy vô hình nhưng có sức mạnh dời non lấp biển. Với tư tưởng, một người
chỉ sống ở trong một mái tranh heo hút nào đó trên hành tinh này, cũng có thể
xoay chuyển được cả cục diện thế giới! Trong mọi cuộc cách mạng, cách mạng tư
tưởng bao giờ cũng đi tiên phong rồi mới đến cách mạng bạo lực.
2.
Nguyên tắc căn bản của lãnh đạo chỉ huy là “Lục Đại Chiến”, bao gồm:
(1)
Tư Tưởng Chiến.
(2)
Mưu Lược Chiến.
(3)
Tổ Chức Chiến.
(4)
Tình Báo Chiến.
(5)
Tâm Lý Chiến.
(6)
Quần Chúng Chiến.
Đó
là những khái niệm lãnh đạo chỉ huy ở mọi lãnh vực hoạt động, hơn nữa là chính
sách trị quốc an dân; sẽ được triển khai rộng rãi và rõ ràng trong những nguyên
tắc được nêu sau đây:
3.
Vì tư tưởng là nguyên nhân phát sinh ra hành động, hướng dẫn và thúc đẩy mọi
hành động tiến tới mục tiêu. Do đó, nhà lãnh đạo cần sáng tạo nên tư tưởng, được
gọi bằng những từ ngữ như: Lý Thuyết, Học Thuyết, Chủ Thuyết, Chủ Nghĩa, Chế Độ,
Triết Lý Chính Trị, Thể Chế Chính Trị hay Chính Thể, nói chung là Lý Tưởng. Những
tư tưởng đó được thể hiện qua những hình thức Điều Lệ, Chính Cương, Cương Lĩnh,
Hiến Pháp. Ngoài ra, còn tuỳ theo từng trường hợp, thời thế, lãnh vực mà phân định
và đặt ra những mưu lược, kế hoạch gọi là: Hạ Sách, Trung Sách và Thượng
Sách!!!
4.
Cần quy tụ, huấn luyện và đào tạo một đội ngũ, lực lượng nòng cốt làm cán bộ, đồng
chí, hạt nhân, tông đồ, đội xung kích, mũi nhọn, tiền phong đầy nhiệt huyết và
thiện chí, nên như men, muối, đèn và gương, sẵn sàng hy sinh, biết quên quyền lợi
và hạnh phúc của bản thân, gia đình, cả thì giờ, tài sản, thậm chí đến tính mạng
mình, hầu thúc đẩy phong trào, lãnh đạo quần chúng.
5.
Tư tưởng rất cần thiết. Nhưng người có tư tưởng không hẳn là người hành động mà
chỉ là lý thuyết gia, nhà tư tưởng. Ngược lại, cũng có người không có tư tưởng,
nhưng lại có năng khiếu biến tư tưởng thành hiện thực. Họ là những nhà hành động.
Cần phối hợp, hiệp nhất cả hai khả năng Tri và Hành thì đại sự mới thành công.
II.
TỔNG QUÁT VỀ CHỦ THUYẾT
-
Định nghĩa một cách thuần lý thì “chủ thuyết” hay “học thuyết”, “chủ nghĩa”, là
hệ thống những tư tưởng, quan niệm, ý thức, có tính triết lý, làm cơ sở lý luận,
chi phối, hướng dẫn mọi hoạt động của con người trong đời sống xã hội, theo một
định hướng nào đó. Có thể nói đây là một loại “niềm tin chính trị” gần như “niềm
tin tôn giáo” vậy. Khi áp dụng thực hành một chủ thuyết để tổ chức chính quyền,
quốc gia, người ta lại gọi là “chế độ” hoặc “thể chế”, “chính thể” hay “thể chế
chính trị”. Các loại chủ nghĩa, học thuyết trong Lịch Sử Thế Giới đã ra đời, từ
xa xưa đến cận đại và hiện đại, lược kê như sau:
-
Nô Lệ, Phong Kiến, Quân Chủ, Đế Quốc, Nguyên Mông, Đại Hán, Bành Trướng, Đế Chế
Babylon, Ai Cập, La Mã, Thổ Nhĩ Kỳ; Thực Dân Anh, Pháp, Tây Ban Nha; Dân Tộc Cực
Đoan, Quốc Gia Quá Khích, Phát Xít, Quốc Xã ở Ý, Đức; Phân Biệt Chủng Tộc ở Nam
Phi; Xã Hội, Cộng Sản, Đảng Trị, Chuyên Chính, Duy Vật, Vô Thần ở Nga, Hoa, Bắc
Hàn, Bắc Việt, Cuba; Hữu Thần, Duy Tâm, Duy Linh, Tư Bản, Cá Nhân, Thực Dụng ở
Tây Phương; Độc Tài, Quân Phiệt ở Miến; Nhật với Đại Đông Á; Cuồng Tín, Khủng Bố
ở Trung Đông; Quân Chủ Lập Hiến ở Anh, Úc, Nhật, Thái; Tam Dân (Dân Tộc độc lập,
Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc) của Tôn Dật Tiên ở Trung Hoa; Chủ nghĩa Bất
Bạo Động của Gandhi ở Ấn Độ; và của Gene Sharp thời nay, v.v…
-
Khi nghe đến những loại chủ nghĩa nêu trên, cảm giác chung là đầu óc người ta cứ
rối tung cả lên, nói theo kiểu kiếm hiệp, còn có thể bị “tẩu hỏa nhập ma” nữa
không chừng!
-
Các loại chủ nghĩa, chế độ trên theo thời gian cứ biến đổi, pha trộn dần mà
phát sinh ra những cách gọi khác nữa, từ hữu lý đến phi lý, chẳng hạn:
-
Từ thế kỷ 19 đến đầu 20, do khoa học tiến bộ, máy móc, vũ khí được phát minh,
giao thương quốc tế sầm uất, mà sinh ra các chế độ, chủ nghĩa Thực Dân, Nô Lệ,
Tư Bản, chuyên đi cướp nước, thống trị, vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động
của con người… Tác nhân chính là các quốc gia Châu Âu như Anh, Pháp, Đức, Ý,
Tây ban Nha.
-
Phong trào đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc của các quốc gia bị trị ở
các Châu Á, Phi, và Mỹ, bằng biết bao nhiêu là máu xương mới thành công! Các chủ
nghĩa trên bị phá sản, tự kiểm điểm, sửa sai mà thành những chế độ Dân Chủ, xem
ra có vẻ chân chính hơn.
-
Cùng với phong trào độc lập trên, chủ nghĩa Xã Hội, Cộng Sản ra đời, nhằm triệt
để tiêu diệt chủ nghĩa Tư Bản, với Tuyên Ngôn và Quốc Tế Ca: “Vùng lên, hỡi các
nô lệ ở thế gian, vùng lên hỡi ai cơ khổ bần hàn…”
-
Số những nước đi theo chủ nghĩa này trên thế giới chẳng có bao nhiêu: Khởi đầu
là Liên Bang Nga, Vùng Đông Âu rồi chỉ có Trung Hoa, Bắc Hàn, Bắc Việt và Cuba
mà thôi.
-
Nhưng sau 70 năm, cái nôi Cộng Sản ở Nga đã tan rã mất rồi, tiếp theo là cả
Vùng Đông Âu sụp đổ tan tành. Chủ nghĩa ma quỷ gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa, là Cộng
Sản, đã bị xu thế thời đại bỏ vào thùng rác lịch sử. Chỉ còn lại mấy đàn em là
Trung Cộng, Việt Cộng, Hàn Cộng và Cuba. Mà cũng là trên danh xưng thôi, là cái
vỏ ngoài, còn ruột trong thì đã biến chất hết, lại sao chép y như chủ nghĩa Tư
Bản. Đặng Tiểu Bình của Trung Cộng cải cách kinh tế với câu nói: “Mèo trắng mèo
đen không sao, miễn là bắt được chuột”. Việt Cộng thì từ kinh tế quốc doanh
theo kinh điển Cộng Sản, nay gọi là kinh tế thị trường (nguyên của Tư Bản), bèn
thêm cái đuôi vô nghĩa, dài thòng “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Những chế
độ này bỗng lâm vào tình trạng khủng hoảng chủ thuyết chính trị một cách thê thảm
và rất đáng xấu hổ!
III.
VIỆT NAM CÓ CẦN MỘT CHỦ THUYẾT KHÔNG?
1.
Trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam, đã từng có các triều
đại, chính quyền, tổ chức, đảng phái nêu lên những phương châm, quan niệm, chủ
trương, khẩu hiệu làm kim chỉ nam, đường lối hoạt động và mục tiêu đạt tới. Điểm
lại một cách tổng quát, thì thấy rằng:
-
Từ nhiều ngàn năm, Việt Nam đã áp dụng chế độ phong kiến, quân chủ theo học
thuyết Khổng Mạnh của Trung Hoa.
-
Trong thời cận đại, do hấp thụ những tư tưởng Tây Phương, đã xuất hiện những chủ
thuyết chính trị có Việt Nam tính, như: Duy Dân, Duy Tân của Phan Bội Châu và
Phan Chu Trinh, Nhân Vị của Ngô Đình Nhu, Nhân Chủ của Hoàng Xuân Việt, v.v…
-
Thậm chí cả cái chủ nghĩa Xã Hội Chủ Nghĩa hay Cộng Sản quái đản và ngoại lai của
Karl Marx cũng được bê nguyên vào nước ta nữa.
2.
Qua các triều đại và các chính thể, những tư tưởng, lý thuyết từ các chủ nghĩa
nêu trên cũng chưa thấy thể hiện rõ ràng trong đời sống xã hội Việt Nam. Có
chăng, tuỳ từng thời kỳ đấu tranh, chỉ để “lập thuyết”, suy nghiệm, mà thôi, hoặc
để tác động tinh thần cán bộ và quần chúng.
-
Ngoại trừ, chủ nghĩa Cộng Sản thì đã được áp đặt một cách gượng ép và tai hại từ
trên 7 thập niên qua, làm băng hoại tận cùng đạo đức, văn hóa và phá sản hoàn
toàn đời sống xã hội, kinh tế khắp Ba Miền Đất Nước.
3.
Vì thế cho nên, xét cho cùng, Việt Nam thời kỳ hậu Cộng Sản không cần thiết phải
có một chủ nghĩa, một học thuyết chính trị nào hết! Thể Chế, Chính Thể hay Hệ
Thống Chính Trị Việt Nam sẽ chỉ là:
-
Đặt trên nền tảng tinh thần, tư tưởng Văn Hóa Việt, thể hiện bàng bạc trong kho
tàng phong phú Tục Ngữ Ca Dao, Ngôn Ngữ Việt Nam và Truyện Cổ Nước Nam; với
truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên, Ý Nghĩa Bánh Chưng, Bánh Dầy, sâu xa hơn, là
Trống Đồng và Triết Lý Bách Việt; với 3 Đặc Tính Cộng Hoà trong mọi lãnh vực
tinh thần cũng như vật chất gồm: Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng!
-
Đồng thời, nội dung Hiến Pháp Việt Nam tương lai, là luật căn bản, sẽ khẳng định
chọn lựa và triệt để ứng dụng Lý Tưởng Tự Do Dân Chủ Phổ Quát Quốc Tế. Đặc biệt,
Hiến Pháp này sẽ tái xác định và nhất là hiện thực hóa việc tổ chức quốc gia,
chính quyền theo nguyên tắc Tam Quyền Phân Lập: Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp.
-
Đó là xu thế, là trào lưu thời đại, như sẽ trình bày đầy đủ và rõ ràng ở đoạn
tiếp theo đây.
-
Và, đó sẽ là Chính Thể Việt Nam Tương Lai. Tinh thần, nguyên tắc này cũng đã
minh nhiên xác định trong Hiến Chương Dân Chủ Việt!
-
Nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang đi theo lý tưởng này, nên đều cùng trở
thành phát triển, tiến bộ, phú cường. Điển hình như Hoa Kỳ là một gương mẫu
hàng đầu. Có thể nói được rằng Công Dân Mỹ chẳng có cái gọi là tinh thần dân tộc
gì hết. Vì lẽ công dân Mỹ là những người có gốc từ mọi chủng tộc và mầu da ở khắp
thế giới tới, hợp lại thành Hiệp Chủng Quốc. Hoa Kỳ cũng không theo một chủ
nghĩa nào cá biệt cả. Chủ Nghĩa Tư Bản Mỹ là do Thế Giới Cộng Sản gọi đấy thôi.
Chung quy, Chính Quyền cũng như Nhân Dân Hoa Kỳ chỉ thực hiện và nêu cao Lý Tưởng
Tự Do Dân Chủ, mà trở thành một cường quốc, văn minh hàng đầu trên Hành Tinh Địa
Cầu này!
IV.
LÝ TƯỞNG TỰ DO DÂN CHỦ
A.
Ý THỨC:
1.
Khi nào thì ý thức về việc có hay mất tự do hiện ra trong tâm trí con người? Đó
là khi người ta phải nhờ vả hay chịu ơn người khác, mắc nợ, bị điện thoại hay
thư từ kêu réo đòi thanh toán. Hoặc phải chung đụng trong việc ăn, ở, dùng, chứ
không được riêng tư theo ý mình. Đó là khi phải bó buộc và bận rộn vì công việc,
vì bổn phận, trách nhiệm, tuân giữ nội quy, chính sách, hoặc ở dưới quyền người
khác, cái gì cũng phải xin phép rồi mới được làm việc riêng. Đó là khi người ta
bị nhốt trong nhà tù, trong trại tập trung, bị ngăn cấm không được làm gì, lại
bị bắt phải làm những việc không được theo ý mình như đi lại, ăn, ngủ, lao động
nặng nhọc, khó khăn, thậm chí còn bị xỉ vả, đe dọa, đánh đập, có khi còn bị hăm
doạ và cả bắn bỏ luôn.
2.
Khi làm người dân của một nước bị ngoại xâm đô hộ, đặt xích xiềng bạo tàn trên
đầu trên cổ, là dân của một dân tộc đã mất quyền độc lập, tuỳ thuộc nước khác về
kinh tế, chính trị, quân sự…Tuy các thời kỳ nô lệ, phong kiến, thực dân xưa đã
qua rồi, nhưng trong thế giới văn minh ngày nay, những hình thái bắt con người
làm “nô lệ lao động, nô lệ tình dục” vẫn xẩy ra ở nhiều nơi trên thế giới.
Trong các nước theo chủ nghĩa cộng sản độc đảng, độc tài, độc đoán; các quyền tự
do của người dân luôn bị o ép, kiềm chế, kiểm soát, theo dõi thường xuyên đã
khiến cho con người phải sống trong sự sợ hãi đến nỗi thành thói quen, khiến
cho người ta mất cả ý thức tự do là gì và có hay không có tự do nữa!!
3.
Rốt ráo hơn, không nhận thức được tự do, là khi người ta phạm tội, bị lương tâm
dày vò, cắn rứt, khiển trách, trở nên nô lệ của ma quỷ và cả bị thưa kiện phải
ra hầu tòa. Đồng thời, là khi con người u mê, không nhận ra Chân Lý là những lẽ
phải trong trời đất, như Lời Thánh Kinh nói: “Chính chân lý sẽ giải thoát anh
em”. Hoặc không thể biết và không biết được những Sự Thật là những điều đã có,
đã làm, đã xẩy ra nơi mỗi người và trong lịch sử.
B.
ĐỊNH-NGHĨA:
1.
Tự Do hay còn được gọi bằng những từ ngữ tương đương khác như: Thong Dong, Ung
Dung, Thư Thái, Nhàn Hạ, An Nhiên, Tự Tại, Bình An, Ấm No và cao hơn là Sung Sướng,
Hạnh Phúc.
-
Chẳng những Tự Do được “gọi bằng” như trên, mà Tự Do còn “đồng nghĩa” với Dân
Chủ Cộng Hoà, Tự Chủ Độc Lập và Nhân Quyền hay Quyền Sống trong một nền Chính
Trị Lý Tưởng, Công Lý, Hòa Bình mà Loài Người đã từng tìm kiếm, đánh đổi bằng
gian khổ và máu xương, trong suốt chiều dài Lịch Sử, tự Cổ chí Kim, từ Đông
sang Tây
-
Vì thế, Lý Tưởng Tự Do Dân Chủ cũng có thể gọi là là một “chủ nghĩa chính trị”
vậy. Nguồn gốc của lý tưởng này xuất phát từ Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo và tư
tưởng của Jean-Jacques Rousseau, Montesquieu. Cả trong thời kỳ quân chủ, phong
kiến xưa ở Đông Á, tuy chưa được thực thi cụ thể, nhưng cũng đã có tư tưởng dân
chủ cao đẹp và lý tưởng của Khổng Mạnh là: “Dân vi quý, xã tắc thứ, quân vi
khinh”.
2.
Tự Do không phải là một nhân đức, mà là một đặc ân từ Thiên Thượng và là cách
diễn tả về những quyền sống cơ bản của con người. Đây cũng chính là lý tưởng
hàng đầu, vì lẽ: ngay từ thuở tạo thành, Thượng Đế đã phú ban cho con người quyền
thiêng liêng tối thượng này ngõ hầu lựa chọn giữa những điều tốt để làm và cả
những điều xấu để tránh. Tất nhiên, Thiên Ý chỉ muốn con người làm điều tốt và
tránh điều xấu mà thôi.
3.
Mặt khác, tự do cũng là nhu cầu tối cần, là điều kiện tiên quyết không những của
đời sống tinh thần mà cả đời sống vật chất nữa. Và đó chính là biểu hiện của
nhân vị, nhân phẩm.
4.
Theo “triết học tổng quát”, tự do là một phạm trù chỉ khả năng biểu hiện ý chí
và làm theo ý muốn của con người, dựa trên nền tảng nhận thức được quy luật
phát triển của tự nhiên và xã hội.
5.
Trong “triết học chính trị”, tự do là một khái niệm mô tả tình trạng một cá
nhân có thể hành động theo ý chí và nguyện vọng của bản thân mình. Quan điểm cá
nhân chủ nghĩa là bảo vệ tự do của cá nhân trước những ép buộc từ bên ngoài.
Còn quan điểm xã hội là việc phân chia quyền lực một cách công bằng, vì nếu tự
do mà không có bình đẳng sẽ dẫn tới sự chiếm ưu thế của những kẻ mạnh.
6.
Quyền tự do được thể hiện bằng nhiều hình thái như: Tự do tư tưởng trong đó mọi
người đều bình đẳng và có quyền suy nghĩ theo ý riêng mình, có quyền tin theo
hay không tin theo một tôn giáo nào (tự do tín ngưỡng hay tự do tôn giáo), có
quyền phát biểu bằng lời nói, chữ viết, hình vẽ (tự do ngôn luận, báo chí), có
quyền lập hội, cư trú, đi lại, mậu dịch, tư hữu, mưu cầu hạnh phúc v.v… mà
không bị cấm đoán hay ngăn cản.
7.
Từ 17 điểm của Tuyên ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp đến 30 điều khoản của
Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền không hề đề cập đến một “nghĩa vụ hay bổn phận”
nào của người dân, mà chỉ nói tới “quyền hạn và quyền lợi”. Nhưng mặc nhiên,
khi ta được hưởng một quyền nào thì người khác có bổn phận phải tôn trọng quyền
đó. Ngược lại, quyền của người khác lại chính là bổn phận của ta vậy.
C.
LÝ-TƯỞNG:
1.
Tự Do là Lý Tưởng của Loài Người đáng lẽ tự nhiên phải được thể hiện, như Thiên
Ý từ thuở tạo thành. Tuy nhiên, chính con người đã tự làm lu mờ đi hay tước đoạt
mất của nhau. Cho nên con người lại phải đấu tranh để thực hiện, để dành lại bằng
mọi giá, kể cả bằng máu xương.
2.
Qua dòng lịch sử thế giới, nỗ lực lớn lao này của loài người đã đạt được những
thành quả, trên văn bản, như sau:
-Tuyên
ngôn Độc Lập Hoa Kỳ năm 1776 ghi nhận quyền bình đẳng giữa người với người là sự
thực hiển nhiên, và đề cao nhân quyền căn bản bao gồm: Quyền Sống, Quyền Tự Do
và Quyền Mưu Cầu Hạnh Phúc. Tục ngữ Mỹ có câu: “Freedom lights the way”: Tự Do
soi sáng con đường, đường dẫn tới hạnh phúc!
-Tuyên
Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp trong cuộc cách mạng 1789 lại nêu lên 3 mục
tiêu: Tự Do, Bình Đẳng và Huynh Đệ (Liberté, Égalité, et Fraternité).
-Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc năm 1945, rồi Tuyên ngôn Quốc Tế Nhân Quyền năm 1948, với
lời mở đầu đề cập về 4 quyền căn bản: “Việc đạt tới một thế giới trong đó mọi
người đều có quyền: Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Tín ngưỡng, Được Giải Thoát Khỏi Sự
Sợ Hãi, Sự Túng Thiếu và Được Tuyên Dương; là nguyện vọng cao cả nhất của con
người”.
3.
Căn cứ vào những Tuyên ngôn trên, các quyền tự do được phân tích và xác định
thành Luật Quốc Tế Nhân Quyền, với Quyền Dân Tộc Tự Quyết và 26 Quyền Dân Sự Cơ
Bản, chia ra làm 4 loại:
(1)
Quyền Tự Do Thân Thể (không bị nô lệ, giam giữ trái phép, tra tấn hành hạ…)
(2)
Quyền Tự Do An Cư (con người trong đời sống xã hội).
(3)
Quyền Tự Do Lạc Nghiệp (về kinh tế, xã hội, văn hóa).
(4)
Quyền Tự Do Tinh Thần (về tư tưởng, tôn giáo, chính trị, ngôn luận).
4.
Bốn loại Nhân Quyền trên còn được phân tích và bình luận bao quát hơn, ngõ hầu
có thể đem áp dụng một cách rộng rãi.
Chẳng
hạn, Tự Do Chính Trị cũng gọi là Tự Do Dân Chủ, rồi đến những tự do khác như: Bầu
Cử, Ứng Cử, Lập Hội, Lập Đảng, Phê Bình và Thay Thế Chính Quyền.
Hoặc
Tự Do Ngôn Luận như Điều 19.2 Công Ước Quốc Tế về các quyền dân sự và chính trị,
do LHQ biểu quyết năm 1976 rằng: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận; quyền
này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến mọi loại tin tức và ý kiến,
không phân biệt ranh giới, bằng truyền miệng bản viết hay bản in, bằng các hình
thức nghệ thuật, hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng khác
theo sự lựa chọn của mình”.
5.
Hiến Pháp là luật căn bản của mọi quốc gia trên thế giới hiện nay từ Tư Bản đến
Cộng Sản đều có một chương nói về “Quyền và Nghĩa Vụ của công dân”, trong đó
ghi rõ: Quyền tự do cá nhân hay công dân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm, chỗ ở, quyền
riêng tư thư tín, điện thoại, điện thư, v.v...
6.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản cũng có câu:’Sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Rồi với những lý luận
rất mập mờ, hoả mù và dài dòng rằng:
Tự
do cá nhân chỉ tồn tại với những cá nhân phát triển trong khuôn khổ của giai cấp
thống trị trong chừng mực họ là cá nhân của giai cấp ấy. Tự do của con người là
một sản phẩm lịch sử, mỗi bước tiến bộ của xã hội là một bước tiến tới tự do rộng
hơn. Tự do cá nhân chỉ là một bộ phận trong phạm vi tự do chung mà xã hội đạt
được ở mỗi thời kỳ lịch sử……Trong xã hội có giai cấp đối kháng, quyền tự do
hành động trên cơ sở nắm mọi của cải và tri thức đối với những cá nhân trong
giai cấp thống trị biến thành bắt buộc phải làm giầu cho kẻ khác, thực hiện ý
chí của người khác đối với những cá nhân trong giai cấp bị trị. Tự do cá nhân
chỉ có thể có trong một chế độ xã hội đã thủ tiêu quan hệ đối kháng giữa người
với người. Trong xã hội ấy, mỗi cá nhân tự đề ra cho mình những mục tiêu phù hợp
với lợi ích của tất cả các thành viên khác trong xã hội, v.v...
7.
Vì mập mờ như thế, nên xem có vẻ “Rằng hay thì thật là hay, nghe ra ngậm đáng
nuốt cay thế nào” ấy! Quả thật, trong thực tế khách quan thì “Nói vậy mà không
phải vậy”, chẳng qua chỉ là những mỹ từ hão huyền, rỗng tuyếch, dùng để tung hoả
mù, đánh lừa và che dấu sự thật phũ phàng trái ngược hẳn lại mà thôi, sẽ được
nói rõ hơn ở đoạn dưới đây…
8.
Như đã nêu trên, Tự Do còn đồng nghĩa với Dân Chủ. Do đó, để thực thi quyền cơ
bản này, để áp dụng thực tiễn, các Hiến Pháp tiến bộ trên thế giới đều quy định
việc tổ chức quốc gia và chính quyền theo nguyên tắc Tam Quyền vừa phân lập lại
hỗ tương. Quyền này kiềm chế Quyền kia, vì sự ổn định quốc gia và hạnh phúc của
nhân dân. Đó là Quyền Lập Pháp do Quốc Hội, Quyền Hành Pháp do Chính Phủ và Quyền
Tư Pháp do Tòa Án. Gọi chung là Chính Thể Dân Chủ!
9.
Không còn như thời quân chủ, phong kiến qua câu nói của vua Louis 16 ở Pháp:
“Điều đó là hợp pháp vì ta muốn như thế” (C’est légal parce que je le veux). Hoặc
không như những chế độ cộng sản, cũng tổ chức cơ cấu chánh quyền kiểu dân chủ,
nhưng khi áp dụng lại lộ rõ ra là cả một tập đoàn chuyên chế, độc tài và đảng
trị, được gọi bằng mỹ từ “dân chủ tập trung”.
10.
Theo những ý nghĩa nêu trên thì quả thực Tự Do chính là quyền bất khả xâm phạm
của con người, mà không một cá nhân hay thế lực, quyền bính nào có thể đụng chạm
tới hay tước đoạt mất.
-
Không tôn trọng nghiêm chỉnh là vi phạm quyền con người, là hành vi thô bạo, lạc
hậu, phi văn minh, đều bị quốc tế lên án và chế tài, bằng mọi biện pháp, từ
chính trị, ngoại giao, văn hóa đến kinh tế và cả bằng quân sự, nếu cần. Đó là bảo
đảm đáng tin cậy của công pháp quốc tế, dù chưa được tuyệt đối đi chăng nữa.
Trên thế gian này, như thế cũng là lý tưởng rồi; và ngay cả tổ chức Liên Hiệp
Quốc mà sức mạnh và uy quyền cũng chỉ tương đối, nhưng có vẫn hơn không!
D.
THỰC TẾ:
1.
Tuy nhiên, trong thực tế phũ phàng thì tình trạng giới hạn, ngăn cản, đàn áp,
chà đạp tự do vẫn xẩy ra một cách phổ biến và có hệ thống trên thế giới từ ngàn
xưa cho đến ngày nay ở các nước theo chế độ độc tài, quân phiệt, cộng sản,
chuyên chính; chẳng khác gì thời phong kiến, thực dân ngày xưa, thậm chí còn
tàn bạo, trắng trợn, công khai hơn nữa!
2.
Các chính quyền Cộng Sản thường nguỵ trang bằng những luật hành chánh như nghị
định trung ương hay quy định địa phương, với chính sách “xin cho”, cái gì cũng
phải làm đơn và chờ chấp thuận có điều kiện. Có khi chẳng bao giờ cứu xét đến,
cứ nói một đàng làm một nẻo, rất mâu thuẫn với Hiến Pháp và tréo cẳng ngỗng
theo kiểu “địa phương to hơn trung ương”.
3.
Về chính trị thì độc đảng, độc quyền, độc đoán, độc tài, gọi là “dân chủ tập
trung”. Thật là mâu thuẫn! Tai ngược hơn nữa còn đặt “Đảng” trên cả “Tổ Quốc” nữa!?
Vì thế, chẳng có bầu cử tự do, công bằng để dân chúng chọn người đại diện cho
mình làm việc công quyền. Cũng chẳng có đối lập, tự do báo chí để kiểm soát,
phê bình chính quyền. Về giáo dục, văn hoá, văn nghệ thì phải theo chỉ đạo, phải
phục vụ cái gọi là “nhiệm vụ chính trị”. Kinh tế quốc doanh, làm thành hệ thống
chia chác lợi quyền, là hang ổ của tập đoàn tham nhũng, sâu dân mọt nước, bòn
rút của công. Các tôn giáo chỉ được tự do trong khuôn khổ, khuôn khổ thánh đường,
chùa chiền theo cái gọi là “pháp lệnh về tôn giáo”, thuần hoá cả giới tu sĩ.
Nhà nước xen vào cả những việc đào tạo, bổ nhiệm giáo sĩ, bắt bớ, giam cầm những
ngôn sứ dám lên tiếng phê phán những vi phạm quyền con người. Thế quyền còn mua
chuộc, lèo lái giáo gian mà lập nên những tổ chức đã khuất phục hay của nhà nước,
gọi là “giáo hội quốc doanh” v.v…
4.
Ngay đến cả các chính thể dân chủ ở Tây Phương cũng vẫn có hiện tượng giới hạn
và vi phạm tự do của dân chúng. Chỉ được một điểm son là trong các chính thể
này, quyền tự do ngôn luận, báo chí, mạng lưới, phê bình và biểu tình phản đối,
để công khai hóa mọi tệ trạng là vốn hơn hẳn các chế độ độc tài trên, như đến cả
tổng thống mà sai trái cũng không được miễn trừ!
5.
Khi con người bị ép vào đường cùng, bị dồn tới chân tường, thì tự nhiên người
ta phải phản ứng tự vệ bằng mọi cách, thụ động như chạy trốn đi tìm tự do ở quốc
gia khác, gọi là tỵ nạn chính trị, tỵ nạn chiến tranh, với bao gian nan, nguy
hiểm trong rừng rậm, trên biển rộng, bằng cả sinh mạng, để được bảo vệ và được
sống tự do, hạnh phúc. Vì những lẽ: “Con giun xéo lắm cũng quằn”, “Mềm thì uốn,
cứng thì gẫy”, và “Ở đâu có áp bức, ở đấy có đấu tranh”. Đó là quy luật tất yếu
trên cõi đời này.
6.
Một khi quyền sống của con người không còn được tôn trọng, bị tước đoạt đi mất,
thì như lịch sử đông tây cổ kim đã chứng minh: Con người phải vùng lên đấu
tranh giành lại tự do dân chủ bằng mọi hình thức. Bất bạo động như cách mạng
giành độc lập ở Ấn Độ; bằng bạo động, bị đàn áp, tù đày, tra tấn; bằng cả bạo động,
chiến tranh, đổ máu như cách mạng Pháp 1789, như cách mạng Đông Âu thập niên
1990…
E.
LẠM DỤNG:
1.
Khi thực hiện Tự Do Dân Chủ, không phải mọi quốc gia trên thế giới cùng một
quan điểm, một quy định y như nhau. Trái lại, còn tuỳ thuộc vào từng nền văn
hóa Đông hay Tây, từng hệ thống tư duy triết học chính trị, phong tục và tâm lý
dân tộc, hoặc viện lý rằng đó là việc nội bộ, quyền tự quyết của từng quốc gia…
2.
Cho nên, trên diễn đàn quốc tế mới hay xẩy ra cái cảnh “Ông nói gà, bà nói vịt”,
là những cuộc “nói chuyện giữa những kẻ điếc”, bên này tố cáo vi phạm nhân quyền,
bên kia biện minh chỉ thi hành luật pháp theo chủ quyền quốc gia. Nước thì tôn
trọng quốc kỳ, cấm dân chúng không được giữ súng, như hầu hết các quốc gia. Nước
lại cứ mặc cho người dân lấy quốc kỳ may quần lót, và được thủ đắc súng ống, gọi
đó là vì tinh thần tự do, như Hoa Kỳ chẳng hạn.
3.
Thần quyền thì khuyên và cấm phá thai, ly dị. Thế quyền lại khuyến khích giết
hài nhi từ trong bụng mẹ, dưới mỹ từ “kế hoạch hóa gia đình”, và có tài trợ, với
ý định kiểm soát dân số, cho ly dị viện cớ tôn trọng”tự do lựa chọn”. Về luân
lý, thì từ nguyên thuỷ, con người đã được Thượng Đế phú cho quyền tự do lựa chọn
giữa sự lành và sự dữ, làm việc thiện hay làm điều ác. Nhưng, qua những giới
răn tốt lành, Thiên Ý luôn luôn muốn con người phải lựa chọn điều Thiện, để được
hạnh phúc trần gian và vĩnh hằng.
F.
GIỚI HẠN:
1.
Trên nguyên tắc và lý tưởng thì quyền Tự Do là theo như ý nghĩa và định nghĩa
đã nêu trên. Nhưng trong áp dụng thực hành, tự do không thể được tuyệt đối,
không thể tới mức quá trớn và mù quáng cho người này được, kẻo lại phương hại tới
tự do của người khác. Tự do ví như con dao hai lưỡi, nhà cầm quyền phải khéo
dùng thì mới phát huy được hiệu quả và duy trì trật tự xã hội. Vì thế, tự do phải
được giới hạn theo tinh thần đạo đức và trong khuôn khổ luật pháp, gọi là “thượng
tôn pháp luật, dân chủ pháp trị”, để đảm bảo được lẽ công bằng và lợi ích thiết
thực của đa số, tập thể, cộng đồng, dân tộc và nhân loại.
2.
Để nhận định rõ hơn, hãy xét tới những trường hợp đan cử sau:
-
Trước hết, con người từ khi còn ấu thơ mà cứ được để cho tự do vô điều kiện, được
phát triển tự nhiên, không cần phải uốn nắn, không bị cấm đoán điều gì, thì tất
nhiên sẽ đi vào con đường nguy hiểm về tính tình và đạo đức, không biết vâng lời
như thế nào, sẽ trở thành con ngựa không cương. “Bé không vin, cả gẫy ngành”,
đó là kỹ thuật trồng cây cảnh và cũng là nguyên tắc giáo dục quan trọng.
-
Anh có quyền tự do ngôn luận, nhưng tuyệt nhiên anh không được viết hay nói tới
những điều sai trái của người khác mà không đưa ra được bằng chứng rõ ràng, khi
mà thực ra người khác ấy không hề có những điều đó. Nếu anh cứ viết và nói, thì
anh phạm tội vu khống về mặt luật pháp, tội cáo gian về mặt luân lý. Nếu nặng nề
hơn, sẽ còn bị thêm tội nói xấu, phỉ báng với tình trạng gia trọng.
-
Anh có quyền tư hữu bằng sức lực chân tay và trí tuệ, nhưng anh không được lấy
của người và của công. Lấy của người là ăn cắp, cướp đoạt. Lấy của công là tham
nhũng, tham ô. Anh có quyền mậu dịch, buôn bán tự do, nhưng không được sản xuất
hàng giả, tích trữ, đầu cơ, nâng giá, trốn thuế. Anh có quyền lái xe trên đường,
nhưng không được vi phạm luật giao thông, như vượt đè đỏ hay chạy quá tốc độ
quy định v.v…
-
Anh có quyền tranh luận, đấu khẩu bằng mọi lý lẽ với người khác mà giành hơn
hay bị thua, nhưng anh không có quyền “thượng cẳng tay, hạ cẳng chân”, vì bạo động
thô bạo, xâm phạm thân thể người khác là hành vi bị cấm chỉ. Vả lại, “quân tử đấu
trí bất đấu lực”.
-
Ở mức độ cao hơn, không ai có quyền cướp mạng sống của người khác. “Chớ giết
người” là Luật Trời, Luật Đạo và Luật Đời. Luật nghiêm minh này đã được Thượng
Đế ghi khắc vào lương tâm con người, được các Tôn Giáo chân chính triển khai
thành giáo lý và được Luật Pháp của mọi quốc gia triệt để thực thi.
3.
Những giới hạn tự do và quy định của pháp luật phần đời như thế, tất cả vì mục
đích chính đáng, vì lợi ích riêng và chung, vì kỷ luật xã hội, trật tự công cộng,
vì quyền lợi tinh thần và vật chất của con người, để bảo vệ nhân phẩm, sinh mạng
cũng như tài sản của mọi người và của chính bản thân anh.
G.
KẾT LUẬN:
1.
Quả thật, Tự Do là lý tưởng, là lẽ sống của con người trên Hành Tinh Địa Cầu
này, là điều vô cùng quý giá, hơn cả cơm ăn, áo mặc và tài sản vật chất. Ai ai
cũng có khả năng cảm nhận hay ý thức được, dù không thể phát biểu bằng lời nói.
Chúa Cứu Thế từng phán: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bằng Lời
do miệng Chúa phán ra”. Lời ở đây chính là những giá trị tâm linh và tinh thần,
trong đó có Tự Do!
2.
Tìm và dành Tự Do Dân Chủ là việc chính đáng. Nhưng thực thi Quyền Tự Do Dân Chủ
cho con người lại đòi hỏi kẻ có trách nhiệm tức là nhà cầm quyền bính phải có đức
công bình và bác ái, có lương tâm ngay thẳng, sự hiểu biết và tôn trọng lẽ phải
phổ quát.
3.
Thế nhưng, đòi hỏi cho có được những lương tâm công chính như thế lại là vấn đề
thiên nan, vạn nan. Cho nên, Lý Tưởng Tự Do Dân Chủ thật sự vẫn chỉ là ước vọng,
có chăng là được tới mức tương đối; và còn cần đến công cuộc tu luyện đạo đức của
con người nói chung: Phải có sự lựa chọn đúng, chọn Sự Thiện để sống theo đạo
lý làm người, vì “Thiên Lý tồn nhân tâm”.
Comments
Post a Comment